KHÁM PHÁ CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT QUA LỜI KỂ CỦA MỘT CẶP VỢ CHỒNG | Ngân | TNU Journal of Science and Technology

KHÁM PHÁ CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT QUA LỜI KỂ CỦA MỘT CẶP VỢ CHỒNG

Thông tin bài báo

Ngày nhận bài: 28/08/24                Ngày hoàn thiện: 30/09/24                Ngày đăng: 30/09/24

Các tác giả

Nguyễn Thị Ngân Email to author, Trường Đại học Nha Trang

Tóm tắt


Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á với hơn 100 triệu người sử dụng, chủ yếu ở Việt Nam, một quốc gia nằm ở Đông Nam Á. Ngôn ngữ này có hệ thống các từ ngữ xưng hô đặc biệt, đan xen sâu sắc với cả chuẩn mực văn hóa và ngôn ngữ. Việc thông thạo các từ ngữ xưng hô này rất quan trọng để hòa nhập văn hóa và tránh những hiểu lầm tiềm ẩn trong giao tiếp. Nghiên cứu này tìm hiểu việc sử dụng cách xưng hô tiếng Việt trong nhiều bối cảnh gia đình và xã hội khác nhau, xem xét cách các từ ngữ này được sử dụng để điều hướng các mối quan hệ và bối cảnh giao tiếp. Thông qua quan sát và phỏng vấn sâu với một cặp đôi, nghiên cứu khám phá những cách tinh tế mà họ xưng hô với nhau trong suốt cuộc hôn nhân của họ. Nghiên cứu cho thấy việc lựa chọn các từ ngữ xưng hô không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố quan hệ và tình huống mà còn bởi tình cảm, thái độ và trạng thái cảm xúc của mỗi cá nhân đối với nhau. Điều này cho thấy các từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt không phải là tĩnh mà phản ánh động bản chất phát triển của các mối quan hệ và cảm xúc cá nhân. Thông qua phân tích này, nghiên cứu góp phần vào việc hiểu sâu hơn về vai trò của các từ ngữ xưng hô trong giao tiếp giữa các cá nhân và làm nổi bật những cách phức tạp mà ngôn ngữ và văn hóa giao thoa.

Từ khóa


Từ xưng hô; Tiếng Việt; Ngôn ngữ; Văn hoá; Giao tiếp

Toàn văn:

PDF (English)

Tài liệu tham khảo


[1] N. Pawestri, “Comparative study of Kinship Terms in Thai, Vietnamese and Indonesian Language,” Proceedings of the 3rd International Conference on Social Sciences, Law, Arts, and Humanities, 2021, pp. 211-215, doi: 10.5220/0010005202110215.

[2] G. L. Murphy, “Personal Reference in English,” Language in Society, vol. 17, pp. 317-349, 1998.

[3] S. Romaine, Language in Society: An Introduction to Sociolinguistics, 2nd ed., Oxford University Press, 2000.

[4] D. F. Akindele, “Sesotho Address Forms,” Linguisitk online, vol. 34, no. 2, pp. 3-15, 2008.

[5] B. Roger and A. Gilman, “The Pronouns of Power and Solidarity,” in Style in Language, T. A. Sebeok. MIT Press, 1960, pp. 253-276.

[6] S. M. Ervin-Tripp, “Sociolinguistic Rules of Address,” in Advances in Experimental Social Psychology, L. Berkowitz. Penguin Booker, 1972, pp. 93-107.

[7] T. Ngo, “Translation of Vietnamese Terms of Address and Reference in Literature to English: the Need for the Translators to be More Source Language Oriented,” Translation Journal, vol. 10, no. 4, pp. 1-13, 2006.

[8] H. V. Luong, Discursive Practices and Linguistics Meaning: Vietnamese System of Person Reference. John Benjamins, 1990.

[9] T. D. T. Bui, “Changing of terms of address in Vietnamese familial communication from a social linguistic network angle,” Vinh University Journal of Science, vol. 47, no. 2B, pp. 37-45, 2018.

[10] Holmes and J. Hedging, “Fencing and Other Conversational Gambits: an Analysis of Gender Differences in New Zealand Speech,” in Women and language in Australian and New Zealand Society, A. Pauwels. Australian Professional Publication, 1987, pp. 59-79.

[11] W. Labov, “The Linguistic Variable as a Structural Unit,” Washington Linguistics Review, vol. 3, pp. 4-22, 1966.




DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.11025

Các bài báo tham chiếu

  • Hiện tại không có bài báo tham chiếu
Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên
Phòng 408, 409 - Tòa nhà Điều hành - Đại học Thái Nguyên
Phường Tân Thịnh - Thành phố Thái Nguyên
Điện thoại: 0208 3840 288 - E-mail: jst@tnu.edu.vn
Phát triển trên nền tảng Open Journal Systems
©2018 All Rights Reserved