SỰ TIẾN BỘ TRONG QUAN NIỆM GIẢNG DẠY HƯỚNG ĐẾN LẤY NGƯỜI HỌC LÀM TRUNG TÂM CỦA GIẢNG VIÊN VIỆT NAM | Ngọc Ngân | TNU Journal of Science and Technology

SỰ TIẾN BỘ TRONG QUAN NIỆM GIẢNG DẠY HƯỚNG ĐẾN LẤY NGƯỜI HỌC LÀM TRUNG TÂM CỦA GIẢNG VIÊN VIỆT NAM

Thông tin bài báo

Ngày nhận bài: 12/03/25                Ngày hoàn thiện: 30/04/25                Ngày đăng: 30/04/25

Các tác giả

1. Dương Thị Ngọc Ngân Email to author, Trường Đại học Kiên Giang
2. Phạm Ngọc Huyền, Trường Đại học Kiên Giang

Tóm tắt


Quan niệm giảng dạy của giảng viên đã từ lâu là trọng tâm của nhiều nghiên cứu giáo dục. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu chỉ tập trung vào hai cực đối lập: giảng dạy hoàn toàn lấy giáo viên làm trung tâm hoặc hoàn toàn lấy người học làm trung tâm, trong khi giai đoạn chuyển tiếp giữa hai mô hình này vẫn chưa được khám phá đầy đủ. Nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại đó, nghiên cứu này vận dụng khung lý thuyết của Kember về các quan niệm giảng dạy trung gian để khảo sát sự thay đổi nhận thức của một nhóm giảng viên đại học Việt Nam về bản chất của giảng dạy. Dữ liệu thu thập từ khảo sát (n = 310), phỏng vấn bán cấu trúc (n = 27) và quan sát lớp học (n = 7) cho thấy nhiều giảng viên đã bắt đầu rời bỏ mô hình dạy học thuần túy lấy giáo viên làm trung tâm vì đã nhận thức được các nguyên lý dạy học lấy người học làm trung tâm, bao gồm việc xác định mục tiêu học tập gắn với nhu cầu của người học; lựa chọn nội dung phù hợp với kiến thức và kinh nghiệm của các em; sử dụng phương pháp dạy học tương tác; ứng dụng công nghệ thông tin; áp dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề mới lạ ngoài thực tế và triển khai đánh giá dựa trên quá trình. Tuy nhiên, việc chuyển đổi này vẫn chưa hoàn thiện do giáo viên còn chịu ảnh hưởng từ các rào cản như áp lực hành chính và chương trình đào tạo cứng nhắc. Kết quả nghiên cứu phản ánh sự tồn tại của một giai đoạn chuyển tiếp trong quan niệm giảng dạy.

Từ khóa


Lấy giáo viên làm trung tâm; Lấy học sinh làm trung tâm; Dạy học theo hướng chuyển giao; Việt Nam; Cái cách

Toàn văn:

PDF (English)

Tài liệu tham khảo


[1] G. Akerlind, “Variation and commonality in phenomenographic research methods,” Higher Education Research and Development, vol. 24, no. 4, pp. 321–334, 2006.

[2] D. Kember, “A Reconceptualisation of the Research into University Academics’ Conceptions of Teaching,” Learning and Instruction, vol. 7, no. 3, pp. 255–275, 1997.

[3] D. K. Nguyen, T. T. V. Phan, B. L. Nguyen, and T. M. Nguyen, Questions for the Process of Educational Reform. Hanoi: Hanoi National University Publisher, 2022.

[4] N. P. T. Hoang, “Implementing the CEFR at a Vietnamese University—General English Language Teachers’ Perceptions,” CEFR Journal, vol. 41, pp. 41-67, 2019.

[5] T. T. Dang Thai and D. Q. Vo, “How is a blended learning model suitable for higher education in economics? – A case study at the University of Economics Ho Chi Minh City,” (in Vietnamese), Journal of Science, Ho Chi Minh City University of Education, vol. 15, no. 10, pp. 90–99, 2018.

[6] Communist Party of Vietnam, Resolution No. 29-NQ/TW dated November 4, 2013 on fundamental and comprehensive reform of education and training, meeting the requirements of industrialization and modernization in the context of socialist-oriented market economy and international integration. Hanoi, Vietnam, 2013.

[7] J. W. Creswell and V. L. Clark, Designing and Conducting Mixed Methods Research, 3rd ed., Thousand Oaks, CA: SAGE, 2018.

[8] T. N. N. Duong and H. Maria, “Validity and Reliability of Cognitive Constructivism-Oriented Teaching Conception Questionnaire,” Asia-Pacific Education Researcher, vol. 33, no. 1, pp. 115–125, 2023.

[9] N. T. L. Huynh, T. N. P. Phan, and L. K. H. Chan, “Implementing the Student-Centred Teaching Approach in Vietnamese Universities: The Influence of Leadership and Management Practices on Teacher Engagement,” Educational Studies, vol. 46, no. 2, pp. 188–204, 2020.

[10] Ministry of Education and Training, Decision No. 1079/QĐ-BGDĐT on the issuance of the training program based on professional title standards for university lecturers. Hanoi, Vietnam, 2022.

[11] M. Weimer, Learner-Centered Teaching: Five Key Changes to Practice. San Francisco, CA: John Wiley & Sons, 2002.

[12] Ministry of Education and Training, Circular No. 35/2021/TT-BGDĐT dated December 6, 2021, on the compilation, selection, appraisal, approval, and use of teaching materials and textbooks in higher education, Vietnam, 2021.

[13] M. Mike and A. Kristina, “Variation in education doctoral students’ conceptions of university teaching,” British Educational Research Journal, vol. 2, no. 4, pp.17–31, 2020.

[14] P. Freire, Pedagogy of the Oppressed,” In Toward a Just World Order, R. Falk ed., Bloomsbury Academic, 2018, pp. 1-12.

[15] L. T. Tran, T. T. T. Le, and N. T. Nguyen, Curriculum and Pedagogy Higher Education in Vietnam: Flexibility, Mobility and Practicality in the Global Knowledge Economy, Springer Link, 2014.

[16] M. O. Sullivan, “New directions, new questions: Relationships between curriculum, pedagogy, and assessment in physical education,” Sport, Education & Society, vol. 18, no. 2, pp. 1–5, 2013.

[17] T. G. Vu and H. N. Nguyen, “Blended learning – a suitable approach for university education in Vietnam in the digital age,” (in Vietnamese), Journal of Science, Hanoi National University of Education, vol. 64, no. 2, pp. 165–177, 2019.

[18] A. T. Degago and L. M. Kaino, “Towards Student-Centered Conceptions of Teaching: The Case of Four Ethiopian Universities,” Teaching in Higher Education, vol. 20, no. 6, pp. 493- 505, 2015.




DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.12280

Các bài báo tham chiếu

  • Hiện tại không có bài báo tham chiếu
Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên
Phòng 408, 409 - Tòa nhà Điều hành - Đại học Thái Nguyên
Phường Tân Thịnh - Thành phố Thái Nguyên
Điện thoại: 0208 3840 288 - E-mail: jst@tnu.edu.vn
Phát triển trên nền tảng Open Journal Systems
©2018 All Rights Reserved