HIỆN TRẠNG BỆNH VÀ KHÁNG SINH SỬ DỤNG Ở CÁ RÔ PHI (Oreochromis sp.) NUÔI TẠI HẢI DƯƠNG, BẮC NINH VÀ BẮC GIANG | Hạnh | TNU Journal of Science and Technology

HIỆN TRẠNG BỆNH VÀ KHÁNG SINH SỬ DỤNG Ở CÁ RÔ PHI (Oreochromis sp.) NUÔI TẠI HẢI DƯƠNG, BẮC NINH VÀ BẮC GIANG

Thông tin bài báo

Ngày nhận bài: 03/03/23                Ngày hoàn thiện: 19/04/23                Ngày đăng: 28/04/23

Các tác giả

1. Trương Thị Mỹ Hạnh Email to author, Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh Thủy sản miền Bắc
2. Nguyễn Thị Nguyện, Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh Thủy sản miền Bắc
3. Lê Thị Mây, Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh Thủy sản miền Bắc
4. Trương Thị Thành Vinh, Viện Nông Nghiệp và Tài Nguyên – Trường Đại học Vinh
5. Phan Thị Vân, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I

Tóm tắt


Cá rô phi (Oreochromis sp.) là một trong những đối tượng nuôi cá nước ngọt có sản lượng cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ nội địa cũng như yêu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, nghề nuôi vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt dịch bệnh và quản lý kháng sinh trong quá trình nuôi. Mục đích của nghiên cứu này nhằm cung cấp dữ liệu ban đầu về hiện trạng bệnh và thuốc kháng sinh sử dụng tại vùng nuôi cá rô phi ở Hải Dương, Bắc Ninh và Bắc Giang. Phương pháp điều tra phỏng vấn trực tiếp người nuôi theo bộ câu hỏi được áp dụng. Kết quả cho thấy, cá nhiễm bệnh có dấu hiệu điển hình như đục mắt, lồi mắt, khoang bụng tích dịch hay gan thận sưng chuyển màu nâu hoặc đen với tỷ lệ cao (88,9 - 100%) vào thời điểm tháng 5-8 trong năm. Cá bệnh được trị bệnh bằng kháng sinh, nhưng hiệu quả không cao mặc dù liều sử dụng đã được tăng lên 1,5-2 lần so với hướng dẫn ở bao bì và sử dụng liên tục 5-7 ngày cho 1 đợt dùng. Hộ nuôi ở Bắc Giang và Hải Dương sử dụng Amoxicillin phổ biến với tỷ lệ lần lượt tương ứng 77,8 và 28,6%, trong khi đó ở Bắc Ninh người nuôi cá sử dụng kháng sinh kết hợp Doxycycline+ Florfenicol là phổ biến với 55,6%.

Từ khóa


Bệnh cá rô phi; Kháng sinh; Hải Dương; Bắc Ninh; Bắc Giang

Toàn văn:

PDF

Tài liệu tham khảo


[1] FAO, The international technical seminal on tilapia health on 1-3/12/2021, 2020.

[2] VASEP, The export market and value export of Tilapia in Vietnam and List of enterprises exporting tilapia in Vietnam from 2018 to 2020, 2021.

[3] T. M. H. Truong, T. H. Nguyen, M. Q. Nguyen, T. M. Le, T. N. Nguyen, T. B. Phan, T. T. V. Truong, and T. V. Phan, “Cause of abnormal in tilapia (Oreochromis sp.) in some northern province 2017-2021,” Journal of Agriculture and Rural Development, vol. 10, pp. 154-159, 2022.

[4] T. M. H. Truong, T. H. N. Pham, H. N. Nguyen, T. V. Phan, V. H. Le, and T. T. V. Truong, “Some main characteristics of Streptococcus agalactiae cause disease on Tilapia (Oreochromis sp.) in brackish water environment,” Journal of Agriculture and Rural Development, vol. 2, pp. 73-79, 2020.

[5] S. Jantrakajorn, H. Maisak, and J. Wongtavatchai, “Comprehensive Investigation of Streptococcosis Outbreaks in Cultured Nile Tilapia, Oreochromis niloticus, and Red Tilapia, Oreochromis sp., of Thailand,” Journal of World Aquaculture Society, vol. 45, no. 4, pp. 392-402, 2014.

[6] M. N. A. Amal and M. Zamri-Saad, “Streptococcosis in Tilapia (Oreochromis niloticus): a review,” Pertanika J. Trop. Agric. Sci., vol. 34, pp. 195-206, 2011.

[7] X. Ye et al., “Identification and molecular typing of Streptococcus agalactiae isolated from pond-cultured tilapia in China,” Fish Sci., vol. 77, pp. 623-632, 2011.

[8] M. P. Tran, T. E. Nguyen, T. P. T. Phung, K. N. Nguyen, Q. T. Nguyen, T. T. H. Do, and T. P. Nguyen, “The use of drug, chemical, and probiotic in red tilapia (Oreochromis sp.) cage culture in Mekong Delta, Vietnam,” Journal of Sciences - Can Tho University, vol. 51b, pp. 80-87, 2017.

[9] M. T. Roe and S. D. Pillai, “Monitoring and Identifying Antibiotic Resistance Mechanisms in Bacteria,” Poultry Science, vol. 82, pp. 622-626, 2003.

[10] V. K. Nguyen, T. M. H. Truong, T. H. Dong, T. H. Nguyen, T. D. Pham, N. T. Bui, T. N. Nguyen, T. X. H. Nguyen, T. G. Pham, and T. T. H. Nguyen, Determining the cause of mass mortality of commercially farmed tilapia in some Northern provinces, Summary report on scientific research Institute of Aquaculture Research, pp. 1-90, 2009.

[11] T. T. H. Nguyen and T. H. Do, “Situation of Streptococcosis in tilapia cultured in Hai Phong and measures to treat the disease in laboratory conditions,” Journal of Fisheries Science and Technology, vol. 4, pp. 120-126, 2015.

[12] T. M. H. Truong, T. V. Phan, T. M. Le, H. N. Nguyen, v. n. Vo, X. Q. Nguyen, and T. L. Dang, “Risk factors relate to Streptococcosis disease on freshwater tilapia,” Vietnam Journal off Science and Technology - MOSST, vol. 7, pp. 42-47, 2021.

[13] A. I. Baga, A. A. Jaya, and Wahidah, “Streptococcus agalactiae whole cell bacteria toxin protein in Nile tilapia Oreochromis niloticus,” AACL Bioflux, vol. 11, no. 2, pp. 460-468, 2018.

[14] H. T. Dong, C. Techatanakitarnan, P. Jindakittikul, A. Thaiprayoon, S. Taengphu, W. Charoensapsri, P. Khunrae, T. Rattanarojpong, and S. Senapin, “Aeromonas jandaei and Aeromonas veronii caused disease and mortality in Nile tilapia, Oreochromis niloticus (L.),” J. Fish Dis., vol. 40, pp. 1395-1403, 2017.

[15] A. S. Mohamad, I. S. Yasin, Z. S. Mohd, A. Salleh, T. Y. Mohd, M. Shirajum, M. Aslah, H. N. M. Mohd, Y. L. Jing, K. C. Yong, A. D. Zahaludin, A. Addenan, L. Basri, R. L. Mark, and N. A. A. Mohammad, “Comparative Pathogenicity of Aeromonas spp. in Cultured Red Hybrid Tilapia (Oreochromis niloticus × O. mossambicus),” Biology, vol. 10, no. 11, pp. 113-121, 2021.




DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.7476

Các bài báo tham chiếu

  • Hiện tại không có bài báo tham chiếu
Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên
Phòng 408, 409 - Tòa nhà Điều hành - Đại học Thái Nguyên
Phường Tân Thịnh - Thành phố Thái Nguyên
Điện thoại: 0208 3840 288 - E-mail: jst@tnu.edu.vn
Phát triển trên nền tảng Open Journal Systems
©2018 All Rights Reserved