SUẤT SINH LỢI GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2018: KẾT QUẢ TỪ MÔ HÌNH HỒI QUY VỚI BIẾN CÔNG CỤ | Hường | TNU Journal of Science and Technology

SUẤT SINH LỢI GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2018: KẾT QUẢ TỪ MÔ HÌNH HỒI QUY VỚI BIẾN CÔNG CỤ

Thông tin bài báo

Ngày nhận bài: 23/11/21                Ngày hoàn thiện: 23/05/22                Ngày đăng: 23/05/22

Các tác giả

Trịnh Thị Hường Email to author, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội

Tóm tắt


Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong thu nhập của người lao động, phát triển kinh tế bền vững của đất nước và giảm bất bình đẳng. Nghiên cứu này đánh giá suất sinh lợi giáo dục của người lao động làm công ăn lương tại Việt Nam, từ 15 đến 65 tuổi. Mô hình hồi quy với biến công cụ được sử dụng để khắc phục vấn đề nội sinh của vấn đề nghiên cứu. Dữ liệu sử dụng từ Bộ điều tra mức sống dân cư 2014-2016 và 2018. Lợi suất trung bình của tăng 1 năm đào tạo là 4% đối với người lao động ở mọi cấp học và ổn định qua các năm. Các yếu tố khác ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê tới thu nhập như tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân và dân tộc. Lao động làm việc trong khu vực  nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài có mức thu nhập cao hơn người làm trong lĩnh vực tư nhân. Kết quả nghiên cứu cung cấp thêm bằng chứng khoa học cho các Bộ ngành quản lý và người lao động trong các chính sách tiền lương và đầu tư giáo dục cho nhân lực trong tương lai.

Từ khóa


Suất sinh lợi giáo dục; Thu nhập theo giờ; Người lao động; Biến công cụ; Bình phương nhỏ nhất hai giai đoạn; Điều tra mức sống dân cư

Toàn văn:

PDF

Tài liệu tham khảo


[1] G. Assembly, Sustainable development goals. SDGs Transform Our World, 2030, 2015.

[2] C. Sakellariou and Z. Fang, “The Vietnam reforms, change in wage inequality and the role of the minimum wage,” Economics of Transition, vol. 22, no. 2, pp. 313-340, 2014.

[3] T. Doan and P. Stevens, “Labour Market Returns to Higher Education in Vietnam,” Economics, vol.5, pp.1-21, 2011, doi: 10.2139/ssrn.1812533.

[4] T. Doan, Q. Le, and T. Q. Tran, “Lost in transition? Declining returns to education in Vietnam,” The European Journal of Development Research, vol. 30, no. 2, pp. 195-216, 2018.

[5] S. McGuinness, E. Kelly, T. T. P. Pham, T. T. T. Ha, and A. Whelan, “Returns to education in Vietnam: A changing landscape,” World Development, vol. 138, p. 105205, 2021.

[6] T. A. Tran, T. Q. Tran and H. T. Nguyen, “The role of education in the livelihood of households in the Northwest region, Vietnam,” Educational Research for Policy and Practice, vol. 19, no. 1, pp. 63-88, 2020, doi: 10.1007/s10671-018-9242-6.

[7] D. Choi, C. Y. Chung, and H. Truong, “Return on education in two major Vietnamese cities,” Sustainability, vol. 11, no. 18, p. 4903, 2019.

[8] N. D. Tien, An analysis of labour market returns to education in Vietnam: evidence from the national labour force survey 2012, International Training Centre of the International Labour Organization Working Paper, 3, 2014.

[9] D. Card, The causal effect of education on earnings. Handbook of labor economics, 3, pp.1801-1863, 1999.

[10] The General Statistics Office of Vietnam, Results of Vietnam Household Living Standard Survey in 2014. Statistical Publishing House, 2015.

[11] The General Statistics Office of Vietnam, Results of Vietnam Household Living Standard Survey in 2016. Statistical Publishing House, 2017.

[12] The General Statistics Office of Vietnam, Results of Vietnam Household Living Standard Survey in 2018. Statistical Publishing House, 2019.

[13] World Bank, World Development Indicators, Inflation, consumer prices (annual %). Available: https://data.worldbank.org/indicator/FP.CPI.TOTL.ZG

[14] J. M. Wooldridge, Introductory econometrics: A modern approach. Cengage learning, 2015.

[15] H. D. Nguyen and T. N. Nguyen, “Return on school in education in Vietnam,” Journal of Asian Business and Economic Studies, vol. 26, no. 5, pp. 60-75, 2015.

[16] J. L. Arcand, B. D’Hombres, and P. Gyselinck, “Instrument choice and the returns to education : New evidence from Vietnam,” Revue Economique, vol. 56, no. 3, pp. 563-572, 2005, doi: 10.3917/reco.563.0563

[17] R. Himaz and H. Aturupana, “Schooling and household welfare: The case of Sri Lanka from 1990 to 2006,” Review of Development Economics, vol. 22, no. 2, pp. 592-609, 2018, doi: 10.1111/rode.12355.

[18] N. Alves, “The impact of education on household income and expenditure inequality,” Applied Economics Letters, vol. 19, no. 10, pp. 915-919, 2012, doi: 10.1080/13504851.2011.607125.

[19] ILSSA and ILO, Labour and Social Trends in Viet Nam 2012–2017, 2018.

[20] N. T. Ngo, T. T. M. Nguyen, T. T. T. Dam, and T. H. Trinh, “Determinant of household expenditure on education in Red River Delta region,” TNU Journal of Science and Technology, vol. 226, no. 04, pp. 53-61, 2021.

[21] V. C Nguyen, “Do minimum wages affect firms’ labor and capital? Evidence from Vietnam,” Journal of the Asia Pacific Economy, vol. 2, no. 22, pp. 291-308, 2017.




DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.5286

Các bài báo tham chiếu

  • Hiện tại không có bài báo tham chiếu
Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên
Phòng 408, 409 - Tòa nhà Điều hành - Đại học Thái Nguyên
Phường Tân Thịnh - Thành phố Thái Nguyên
Điện thoại: 0208 3840 288 - E-mail: jst@tnu.edu.vn
Phát triển trên nền tảng Open Journal Systems
©2018 All Rights Reserved